Home » » Qua nhân vật Mị và A Phủ hãy chứng minh giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của truyện "Vợ chồng A Phủ".

Qua nhân vật Mị và A Phủ hãy chứng minh giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của truyện "Vợ chồng A Phủ".

Unknown | 1.5.12 | 0 nhận xét
Bài làm

Cùng với tiếng sáo thiết tha, câu hát của chàng trai Hmông trong đêm tình mùa xuân càng trở nên bồi bồi:

"Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu".

Và những chiếc váy hoa của các cô gái trong các làng Hmông đỏ đem phơi nắng trên mỏm đá "xòe như con bướm sặc sỡ". Chuyện thống lí Pá Tra và bọn chức việc Hồng Ngài xử kiện kẻ đánh con quan, chuyện A Phủ và A Châu uống tiết gà trong lễ ăn sùng "làm anh em" kết nghĩa... đã cho ta nhiều xúc động khi đọc truyện "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài.

Truyện ngắn này rút trong tập "Truyện Tây Bắc", giải nhất giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Nó là kết quả của chuyến đi 8 tháng vào năm 1952, khi nhà văn Tô Hoài theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc.

Mị và A Phủ là hai nhân vật chính của truyện đã trải qua những năm tháng dài bi thảm. Mị là con dâu gạt nợ của thống lí Pá Tra. A Phủ vì tội đánh con quan mà trở thành nô lệ. Hai người đã cứu nhau cùng chạy trốn từ Hồng Ngài đến Phiềng Sa, nên vợ nên chồng, rồi trở thành chiến sĩ du kích. Đây là một truyện ngắn viết về đề tài miền núi rất thành công, giàu giá trị hiện thực và nhân đạo. Tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực cảm động về nỗi thống khổ và sự vùng dậy của người Hmông ở Tây Bắc.

1. Giá trị hiện thực.

Thông qua số phận của Mị và A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã dựng lại quãng đường đời đầy đau khổ của họ, tiêu biểu cho nỗi thống khổ của người Hmông dưới ách thống trị vô cùng tàn bạo của bọn Tây đồn và lũ tay sai. Cuộc đời của Mị và A Phủ đã thấm nhiều máu và nước mắt. Những gì đẹp đẽ nhất thời thanh xuân của hai người đã bị cha con thống lí Pá Tra tước đoạt và giày xéo.

Pá Tra là chúa đất vùng Hmông Hồng Ngài, hắn là tay sai đắc lực của giặc Pháp đã được bọn Tây đồn cho muối, vải về bán, ăn của dân nhiều, giàu lắm "nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng". Bố Mị mắc nợ thống lí một món tiền nhỏ, năm nào cũng phải trả lãi một nương ngô; món nợ truyền kiếp từ ngày bố mẹ Mị mới lấy nhau. Nay mẹ Mị đã chết, bố đã già mà món nợ vẫn như một sợi dây oan nghiệt ! A Sử là con trai thống lí, dựa vào uy quyền của bố, hắn đã lừa bắt được nhiều cô gái Hmông về làm vợ. Mị là một cô gái trẻ, đẹp, thổi khèn rất hay, nhiều chàng trai mê "ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị". Nhưng cô đã bị A Sử đánh lừa, bắt về cúng trình ma trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí. Từ đó, Mị đã trải qua những năm dài cực nhục; mặt buồn rười rượi; làm quần quật suốt ngày đêm, chẳng khác nào con ngựa, con trâu trong chuồng, con rùa trong xó cửa. Trong truyện thơ "Tiễn dặn người yêu", cô gái Thái bị ép duyên, đau khổ than thân:

"Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa

Bằng con chẫu chuộc thôi !".

Ở đây, Mị có lúc tủi thân nghĩ rằng mình không bằng con ngựa... Nơi Mị ở, nơi bị nhốt là một cái buồng kín mít, chỉ có một lỗ nhỏ bằng bàn tay, nhìn ra bên ngoài chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Đó là những chi tiết rất hiện thực. Có lúc người đọc phải thốt lên: Cái ác nơi vùng rẻo cao đáng sợ quá chừng ! Thân phận người Hmông ngày xưa sao nhiều cay đắng thế !

Trong "cái chuồng thú" ấy, Mị đã bị A Sử trói đứng suốt một đêm dài, trói bằng tóc và bằng cả một thúng sợi đay "khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức".

Khổ nhục quá, "có đến hàng mấy tháng đêm nào Mị cũng khóc". Có lúc Mị toan ăn lá ngón tự tử, nhưng vì bố đã già, Mị chết ai làm nương ngô giả nợ thống lí ! Chết không đành, Mị phải trở về cái buồng kín mít làm thân con trâu, con ngựa. Tô Hoài đã viết một câu vô cùng ai oán: "Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi". Tuổi trẻ của Mị đã bị giày xéo đến tận bùn đen, cho nên đi đâu, ngồi đâu, cô "cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Mị khao khát hạnh phúc, nhưng cô bị chà đạp, tâm hồn héo hắt mỏi mòn. Những đêm đông dài trên rẻo cao, đêm nào Mị cũng dậy lúc nửa đêm để sưởi, cô "chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa". Nhiều đêm A Sử đi đâu về, thấy Mị ngồi sưởi hắn đã đạp cô "ngã ngay xuống cửa bếp".

Sự tàn ác của cha con thống lí Pá Tra là hành động cướp giật hạnh phúc, đày đọa tuổi trẻ, giết chết phần tốt đẹp nhất của người con gái đáng thương. Cha con thống lí đã sử dụng cường quyền và thần quyền (cúng trình ma) để áp bức bóc lột dã man người lao động. Tô Hoài đã lên án một cách mạnh mẽ bộ mặt ghê tởm của bọn lãnh chúa, bọn thổ ty, lũ thống lí trong xã hội người Hmông trước đây.

Bên cạnh hình ảnh Mị là hình ảnh A Phủ, một con người trải qua nhiều bất hạnh. Cha, mẹ, anh em chết vì trận dịch bệnh đậu mùa. A Phủ bị người ta đem bán cho người Thái. A Phủ lại trốn về quê, đi làm thuê kiếm ăn lần hồi. Đói rét, tật bệnh không giết nổi, A Phủ đã lớn, "chạy nhanh như ngựa", biết đúc lưỡi cày, săn bò tót rất bạo. Nhiều cô gái mê, nhiều người nói: "Đứa nào được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu". Nhưng vì các loại hủ tục "phép rượu", "phép làng" và "tục lệ cưới xin" nên A Phủ vẫn tứ cố vô thân. Vì tội đánh con quan mà A Phủ bị bắt trói như con lợn đem giết thịt, bị đánh đập từ chiều cho đến thâu đêm, mặt và mép đầy máu, "quỳ chịu đòn, chỉ im như cái tượng đá". Hai đầu gối "sưng bạnh lên như mặt hổ phù". Thống lí và bọn chức việc "càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút". Chúng nó hút thuốc phiện "như những con mọt nghiến gỗ kéo dài". A Phủ không bị giết mà bị phạt vạ 100 đồng bạc trắng. Thống lí đã cho A Phủ "vay". A Phủ trở thành "con trâu con ngựa" cho nhà Pá Tra từ đấy ! "Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi !".

Từ đó, A Phủ như một tên nô lệ: đốt rừng, săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm một mình bôn ba dong ruổi ngoài gò ngoài rừng. "Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí". Hổ bắt mất bò, Pá Tra quát A Phủ: "Quân ăn cướp làm mất bò tao !". A Phủ bị trói vào cái cọc bằng một cuộn dây mây, trói cho đến chết nếu không bắt được hổ ! A Phủ bị trói suốt mấy đêm ngày, đói, rét, đau đớn, đôi hõm má "đã xạm đen lại" sắp chết !.

Mị và A Phủ tuy cảnh ngộ khác nhau, nhưng đều trở thành nô lệ cho nhà thống lí. Tuổi trẻ, thân xác, tâm hồn... bị chà đạp dã man. Tô Hoài đã xây dựng nhân vật Mị và A Phủ đối lập với cha con thống lí Pá Tra, khắc họa bi kịch của số phận, từ đó làm nổi bật giá trị hiện thực của truyện ngắn này.

2. Giá trị nhân đạo.

Truyện "Vợ chồng A Phủ" còn có giá trị nhân đạo cao đẹp. Mị đã vứt nắm lá ngón vì thương cha già: Mị chết ai làm nương trả nợ thay cha. Mị thương xót một người đàn bà ngày trước đã "bị bắt trói đến chết" ở cái nhà này. Mị có lúc xót xa, tự thương mình đã bị bắt về "trình ma nhà nó rồi chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi...".

Thương mình rồi thương người, Mị căm giận cái ác và kẻ ác. Nhìn A Phủ bị trói, Mị vừa sợ vừa lo, cô xót xa thương cảm: "Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết". Mị căm giận nguyền rủa cha con thống lí: "Trời ơi... Chúng nó thật độc ác !". Hành động Mị lấy dao nhỏ cắt nút dây mây cứu sống A Phủ biểu lộ sâu sắc nhất tinh thần nhân đạo. A Phủ chạy trốn, Mị cùng vùng chạy theo. Mẩu đối thoại trong cơn nguy kịch thật vô cùng cảm động: "A Phủ cho tôi đi"..., "Ở đây thì chết mất !". Đáp lại tiếng nói của người đàn bà chê chồng, vừa cứu thoát mình, A Phủ đã nói lên những lời chan chứa tình nghĩa: "Đi với tôi !" Thế rồi hai người dìu nhau chạy thục mạng, vượt qua bao triền núi tai mèo, ăn lá rừng, mộc nhĩ, mật ong, tìm được thứ gì ăn thứ ấy, dìu nhau đi suốt một mùa mưa thì đến được khu du kích Phiềng Sa. Mị và A Phủ nên vợ nên chồng từ đấy. Hai người đã chung sức xây dựng lại cuộc đời. Họ mơ ước có một mái nhà, một tàu ngựa, có ngô ăn quanh năm... Tô Hoài đã kể lại cuộc chạy trốn của Mị và A Phủ bằng những tình tiết vô cùng xúc động. Hai người đã vùng dậy, tự cứu mình, thoát khỏi kiếp nô lệ, giành lấy quyền sống làm người, được làm vợ làm chồng, được tự do. Mị và A Phủ đã từ bóng tối của địa ngục vượt qua gian nguy đến với ánh sáng cõi đời. Sự vùng dậy ấy mang tính nhân bản sâu sắc.

Đến Phiềng Sa, A Phủ và Mị lại sa vào tay giặc - bọn Tây đồn Bản Pe. A Phủ bị đánh đập dã man, lưng đầy sẹo, cái roi tóc của cha mẹ để lại cho đã bị bọn Tây "chó đẻ" cắt mất. Hai con lợn nhỡ cũng bị chúng ăn cướp mất ! Ngọn lửa căm thù bọn thực dân và lũ phong kiến tay sai bùng cháy dữ dội. Ý thức giai cấp được giác ngộ. Sau lễ ăn sùng (ăn thề) với A Châu - người cán bộ kháng chiến, vợ chồng A Phủ biết làm rẫy, làm lán bí mật, gia nhập đội du kích Phiềng Sa. Câu nói của A Phủ (lúc quát Mị) thể hiện một quyết tâm, một tâm thế rất đẹp: "Mê à ! Đây không phải là Hồng Ngài ! Đây là khu du kích Phiềng Sa, A Phủ là tiểu đội trưởng du kích mà !".

Chân lí về tự do cuộc đời được khẳng định ! Mị và A Phủ không chỉ thoát kiếp nô lệ, thoát khỏi sự giày xéo của cha con thống lí Pá Tra mà hai người còn biết cầm súng, cùng với trai, gái bản Hmông, kết nghĩa anh em với cán bộ, "giữ đường cho bộ đội", giải phòng người Hmông, đánh đổ chế độ phong kiến và bọn thực dân cướp nước.

Truyện "Vợ chồng A Phủ" là một thành công đáng tự hào của Tô Hoài, của văn xuôi Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Nhờ những chuyến đi dài ngày vào vùng rẻo cao Tây Bắc, tác giả đã tích lũy được một vốn sống phong phú về phong tục, về đời sống vật chất và tinh thần của người Hmông. Tô Hoài đã miêu tả một cách cụ thể, chân thực và cảm động số phận của Mị và A Phủ từ nô lệ đến tự do, từ bóng tối đến ánh sáng, từ tủi nhục đến hạnh phúc... Đó là cả một quá trình vùng dậy phải trả giá bằng nhiều máu và nước mắt. Đọc truyện "Vợ chồng A Phủ" ta cảm nhận sâu sắc cái giá của tự do và hạnh phúc. Bằng tài năng và tâm lòng, Tô Hoài đã dành cho Mị và A Phủ sự xót thương, đồng cảm và đồng tình sâu sắc. Người đọc tưởng như Tô Hoài đã được chứng kiến cảnh Pá Tra xử kiện A Phủ, cảnh Mị cắt dây trói cứu A Phủ rồi cùng chạy trốn...

Nửa thế kỉ đã trôi qua, truyện ngắn này vẫn đứng vững trước thời gian và thử thách của bạn đọc. Từ sự đổi đời của Mị và A Phủ, Tô Hoài như muốn tâm sự cùng độc giả gần xa: muốn có sự đổi đời, muốn được sống trong tự do và hạnh phúc thật sự thì phải đấu tranh, phải một lòng đi theo cách mạng và kháng chiến. Đó là giá trị đích thực của áng văn này: giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo cao đẹp.
Chia sẻ qua: :

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
: Copyright © 2012. Thư viện ngữ văn giữ tất cả bản quyền.
Thiết kế và biên tâp bỡi THƯ VIỆN NGỮ VĂN
Hộ trợ của Blogger